1. Cá nhân cư trú tại Việt Nam phải đáp ứng một trong các điều kiện
sau đây:
a)
Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục
kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, trong đó ngày đến và ngày đi được tính
là một (01) ngày.
Ngày đến và ngày đi được căn cứ vào chứng thực của cơ quan quản lý xuất
nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) của cá nhân khi đến và khi rời
Việt Nam.
Trường hợp nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày thì được tính
chung là một ngày cư trú.
Cá nhân có mặt tại Việt Nam theo hướng dẫn tại điểm này là sự hiện diện
của cá nhân đó trên lãnh thổ Việt Nam.
b)
Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau:
b.1)
Có nơi ở thường xuyên theo quy định của pháp luật về cư trú:
- Đối với công dân Việt Nam: nơi ở thường xuyên là nơi cá nhân
sinh sống thường xuyên, ổn định không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã
đăng ký thường trú theo quy định của pháp luật về cư trú.
- Đối với người nước ngoài: nơi ở thường xuyên là nơi ở thường
trú ghi trong Thẻ thường trú hoặc nơi ở tạm trú khi đăng ký cấp Thẻ tạm trú do
cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an cấp.
b.2)
Có nhà thuê để ở tại Việt Nam
theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của các hợp đồng thuê từ 183
ngày trở lên trong năm tính thuế, cụ thể như sau:
- Cá nhân chưa hoặc không có nơi ở thường xuyên theo hướng dẫn tại điểm
b.1, khoản 1, Điều này nhưng có tổng số ngày thuê nhà để ở theo các hợp đồng
thuê từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế cũng được xác định là cá nhân cư
trú, kể cả trường hợp thuê nhà ở nhiều nơi.
- Nhà thuê để ở bao gồm cả trường hợp ở khách sạn, ở nhà khách, nhà
nghỉ, nhà trọ, ở nơi làm việc, ở trụ sở cơ quan,... không phân biệt cá nhân tự
thuê hay người sử dụng lao động thuê cho người lao động.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
MỘT SỐ LƯU Ý CỤ THỂ
Trường hợp cá nhân có nơi ở thường xuyên tại
Việt Nam theo quy định tại khoản này nhưng thực tế có mặt tại Việt Nam dưới 183
ngày trong năm tính thuế mà cá nhân không chứng minh được là cá nhân cư trú của
nước nào thì cá nhân đó là cá nhân cư trú tại Việt Nam.
Việc chứng minh là đối tượng cư trú của nước khác được căn cứ vào Giấy
chứng nhận cư trú. Trường hợp cá nhân thuộc nước hoặc vùng lãnh thổ đã ký kết
Hiệp định thuế với Việt Nam không có quy định cấp Giấy chứng nhận cư trú thì cá
nhân cung cấp bản chụp Hộ chiếu để chứng minh thời gian cư trú.
Theo Công văn
35263/CT-HTr ngày 27/05/2016 của Cục thuế Hà Nội:
Trường hợp người
lao động của Công ty có nơi ở thường xuyên ở Việt Nam nhưng thực tế có mặt tại
Việt Nam dưới 183 ngày trong năm tính thuế mà cá nhân đó chứng minh được là cá
nhân cư trú tại Nhật Bản thì cá nhân đó được xác định là đối tượng cư trú tại
Nhật Bản.
Việc chứng minh là đối tượng cư trú của nước
khác được căn cứ vào Giấy chứng nhận cư trú. Xác nhận cư trú của cơ quan Thuế
Nhật Bản đủ điều kiện để xác định tình trạng cư trú của cá nhân tại Nhật Bản.
Theo Công văn
3604/TCT-TNCN ngày 04/09/2015 của Tổng cục thuế:
Theo những quy định nêu trên, trường hợp Công ty TNHH Nidec
Tosok có người lao động là người nước ngoài có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam
ghi trên Thẻ tạm trú nhưng thực tế có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày và không
chứng minh được là đối tượng cư trú tại Nhật trong năm 2015 thì khi chi trả thu
nhập cho cá nhân, Công ty thực hiện khấu trừ thuế thu nhập cá nhân đối với cá
nhân cư trú.
Trường hợp người lao động là người nước ngoài có nơi ở
thường xuyên tại Việt nam ghi trên thẻ tạm trú nhưng thực tế có mặt tại Việt
Nam dưới 183 ngày và có Giấy chứng nhận cư trú là đối tượng cư trú tại Nhật
trong năm 2015 thì khi chi trả thu nhập cho cá nhân, Công ty thực hiện khấu trừ
thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư trú tại Việt Nam.
Theo Công văn 970/TCT-TNCN ngày
23/3/2018 của Tổng cục Thuế:
Tình trạng cư trú của cá nhân theo công văn số
01/122017/CV-DVC ngày 26/12/2017 của Công ty TNHH Denyo Việt Nam như sau:
- Ông Taizo Mizuno người Nhật Bàn vào Việt Nam
làm việc từ năm 2012 đến ngày 24/4/2014 rời khỏi Việt Nam. Các năm 2012, 2013,
2014 Công ty đã thực hiện khấu trừ và quyết toán thuế TNCN của ông Taizo Mizuno
theo quy định tại Việt Nam.
- Ngày 28/10/2017 ông Taizo Mizuno trở lại
Việt Nam làm việc và dự kiến sẽ làm việc đến ngày 27/10/2019.
Căn cứ hướng dẫn nêu trên và tình trạng cư trú
của cá nhân, ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam để xác định tình trạng cư trú và
năm tính thuế đầu tiên của ông Taizo Mizuno là ngày 28/10/2017, nội dung công
văn số 6647/CT-TTHT ngày 22/12/2017 của Cục Thuế tỉnh Hưng Yên là phù hợp với
quy định hiện hành.
2. Cá nhân không cư trú:
-
Là những cá nhân không đáp ứng những điều kiện cá nhân cư trú.
3. Cách xác định thu nhập chịu thuế:
-
Đối với cá nhân cư trú,
thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam,
không phân biệt nơi trả và nhận thu nhập.
Đối với cá nhân là công dân của quốc gia, vùng lãnh
thổ đã ký kết Hiệp định với Việt Nam về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa
việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và là cá nhân cư trú
tại Việt Nam thì nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân được tính từ tháng đến Việt Nam
trong trường hợp cá nhân lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam đến tháng kết thúc
hợp đồng lao động và rời Việt Nam (được tính đủ theo tháng) không phải thực
hiện các thủ tục xác nhận lãnh sự để được thực hiện không thu thuế trùng hai
lần theo Hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa hai quốc gia.
- Đối với cá nhân không cư trú, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh tại
Việt Nam, không phân biệt nơi trả và nhận thu nhập.